Bệnh Lý Nội Tiết

Bệnh Lý Nội Tiết

Ngày đăng: 06/09/2024 11:25 PM

    1. Bệnh tiểu đường

    Hơn 55% bệnh nhân đái tháo đường tại Việt Nam có biến chứng, trong đó 34% biến chứng về tim mạch; 39,5% có biến chứng về mắt và thần kinh và 24% biến chứng về thận. 

    Đặc trưng của bệnh tiểu đường là lượng đường trong máu luôn cao hơn mức bình thường do cơ thể bị thiếu hụt hoặc đề kháng với insulin, gây tình trạng rối loạn chuyển hóa đường trong máu. Đây cũng là nguyên nhân cản trở cơ thể chuyển hóa các chất bột đường thành năng lượng, gây ra hiện tượng đường tích tụ tăng dần trong máu. 

    Lâu ngày, sự tích tụ này khiến lượng đường trong máu thường xuyên ở mức cao, từ đó, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và các bệnh lý khác, gây tổn thương các bộ phận như mắt, thận,… thậm chí tử vong. Đặc biệt, biến chứng tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người mắc bệnh tiểu đường. 

    2. Bệnh bướu giáp

    Bệnh bướu giáp (còn gọi là bướu cổ/ bướu tuyến giáp) có thể được phân loại theo một số cách khác nhau, bao gồm cả cách bệnh phát triển và mức độ hormone tuyến giáp có bất thường hay không.

    Phân loại bướu cổ dựa trên cách bướu phát triển:

    • Bướu cổ đơn giản (lan tỏa): Toàn bộ tuyến giáp sưng lên, khi sờ vào sẽ có cảm giác mịn.
    • Bướu cổ dạng nốt: Xuất hiện khối u rắn hoặc chứa đầy chất lỏng, còn được gọi là nốt phát triển bên trong tuyến giáp và làm cho nó có cảm giác như cục u.
    • Bướu cổ đa nhân: Có nhiều cục (nốt) trong tuyến giáp. Các nốt có thể nhìn thấy hoặc được bác sĩ phát hiện khi đi khám tổng quát hoặc siêu âm.

    Phân loại bướu cổ dựa trên nồng độ hormone tuyến giáp:

    • Bướu cổ độc: Do tuyến giáp nở rộng và sản xuất quá nhiều hormone tuyến giáp. Bướu cổ độc nhiều nốt xảy ra khi trên tuyến giáp có nhiều nốt và nhiều hormone được tiết ra. 
    • Bướu cổ không độc: Có tuyến giáp mở rộng nhưng mức độ hormone tuyến giáp bình thường. Bướu cổ không độc có nghĩa không phải cường giáp (tuyến giáp hoạt động quá mức) hoặc suy giáp (tuyến giáp hoạt động kém).

    Tóm lại, bệnh bướu giáp là một trong những dạng rối loạn tuyến giáp phổ biến nhất, do tuyến giáp phì đại bất thường. Bệnh bướu cổ thường không gây đau nhưng những bướu lớn có thể sẽ gây ho, khó thở, nuốt nghẹn, khàn tiếng,…

    Điều trị bướu cổ phụ thuộc vào mức độ lớn của tuyến giáp, các triệu chứng và nguyên nhân gây ra nó. Theo đó, điều trị bướu cổ sẽ bao gồm:

    • Không cần điều trị / Theo dõi: Nếu bướu cổ nhỏ và không gây phiền toái cho người bệnh, bác sĩ có thể khuyên không cần điều trị. Tuy nhiên, bác sĩ sẽ lưu ý người bận về việc theo dõi kỹ càng những thay đổi của tuyến giáp.
    • Sử dụng thuốc: Levothyroxine (Levothroid, Synthroid) là liệu pháp thay thế hormone tuyến giáp. Bác sĩ sẽ kê đơn nếu nguyên nhân gây bướu cổ là do tuyến giáp hoạt động kém (suy giáp) hay hoạt động quá mức (cường giáp). Bác sĩ cũng có thể kê đơn aspirin hoặc thuốc corticosteroid nếu bướu cổ do viêm.
    • Điều trị bằng iốt phóng xạ: Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp tuyến giáp hoạt động quá mức, liên quan đến việc uống iốt phóng xạ bằng đường uống. I-ốt đi đến tuyến giáp và giết chết các tế bào tuyến giáp, gây co hẹp tuyến. Sau khi điều trị bằng i-ốt phóng xạ, người bệnh có thể sẽ phải dùng liệu pháp thay thế hormone tuyến giáp suốt đời.
    • Phẫu thuật: Bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật để loại bỏ tất cả hoặc một phần tuyến giáp (phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp). Người bệnh có thể cần phẫu thuật nếu bướu cổ lớn và gặp tình trạng khó thở và khó nuốt. Phẫu thuật đôi khi cũng được sử dụng để loại bỏ các nốt sần. Trường hợp mắc ung thư cũng phải phẫu thuật. Tùy thuộc vào số lượng tuyến giáp bị loại bỏ, người bệnh có thể phải dùng liệu pháp thay thế hormone tuyến giáp cho phần còn lại của cuộc đời.

    3. Bệnh cường giáp

    Cường giáp xảy ra khi tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone. Tình trạng dư thừa này có thể do một số nguyên nhân, bao gồm cả viêm tuyến giáp hoặc bệnh Graves (bệnh bướu độc lan tỏa).

    Khi tình trạng cường giáp xảy ra có thể gây ra một loạt các triệu chứng, bao gồm: Nhịp tim nhanh hoặc không đều; khó ngủ; khó chịu và lo lắng; mệt mỏi; nóng bức; đi tiêu thường xuyên/tiêu chảy; gầy sút cân, phình giáp (cổ to).

    Nếu không được điều trị, bệnh Graves có thể gây nhiễm độc giáp nghiêm trọng. Có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng nhiễm độc giáp đe dọa tính mạng (cơn bão giáp). Nhiễm độc giáp nặng kéo dài dẫn đến sụt cân nghiêm trọng kèm theo dị hóa xương và cơ. Biến chứng tim và biến chứng tâm thần có thể gây ra bệnh tật đáng kể. Bệnh Graves cũng liên quan đến bệnh nhãn khoa, bệnh da và bệnh bạch cầu.

    Bão giáp là một trạng thái nhiễm độc giáp phóng đại, thường xảy ra ở những bệnh nhân bị nhiễm độc giáp không được phát hiện hoặc điều trị không đầy đủ hay một sự kiện kết tủa chồng chất như phẫu thuật tuyến giáp, phẫu thuật không giáp, nhiễm trùng hoặc chấn thương. Khi cơn bão giáp được mô tả lần đầu, tỷ lệ tử vong cấp tính là gần 100%. Nhưng đến nay, với liệu pháp tích cực và nhận biết sớm hội chứng, tỷ lệ tử vong chỉ ở mức 20%.

    Có 3 phương pháp điều trị cường giáp bao gồm: Điều trị nội khoa bằng thuốc, liệu pháp điều trị phóng xạ bằng cách uống iod có gắn chất phóng xạ hoặc điều trị ngoại khoa bằng cách phẫu thuật tuyến giáp. 

    4. Bệnh suy giáp

    Trái ngược với cường giáp là tình trạng suy giáp. Bệnh xảy ra khi tuyến giáp không sản xuất đủ lượng hormone cho cơ thể. Đây là rối loạn tuyến giáp phổ biến nhất, có thể khiến các quá trình trong cơ thể bị chậm lại. 

    Các triệu chứng bệnh suy giáp bao gồm: Mệt mỏi, sợ lạnh, da khô, nhịp tim chậm, chuột rút, táo bón, tăng cân,…

    Phương pháp điều trị thường là bổ sung hormone tuyến giáp nhằm kiểm soát các triệu chứng. Tuy nhiên nếu không được điều trị sớm sẽ gây ảnh hưởng tim mạch, vô sinh. 

    5. Bướu tuyến thận

    Mỗi quả thận có một tuyến thượng thận, là một phần của hệ nội tiết, sản xuất các hormone quan trọng cho cơ thể như aldosterone, cortisol từ vỏ não, adrenalin từ tủy. Hầu hết khối u ở tuyến thượng thận lành tính. Nhưng ở vài trường hợp, khối u này tiết ra hormone mức độ cao có thể gây ra các biến chứng. Việc điều trị bướu tuyến thận có thể dùng thuốc hoặc phải phẫu thuật.

    6. Hội chứng Cushing

    Hội chứng Cushing xảy ra khi cơ thể dư thừa lượng hormone cortisol. Cortisol giúp cơ thể phản ứng với căng thẳng, điều chỉnh quá trình trao đổi chất và duy trì huyết áp.

    Tình trạng dư thừa cortisol ở những người mắc hội chứng Cushing có thể gây ra các triệu chứng bao gồm: Tăng cân, chân tay teo nhỏ, mặt tròn bất thường, hình thành cục mỡ giữa vai (gù trâu), lông mọc nhiều, yếu cơ, tầm nhìn mờ, giảm khả năng sinh sản và ham muốn tình dục, mệt mỏi, các vết rạn màu tím trên da và da dễ bị bầm tím. 

    Các biến chứng nặng nề hơn bao gồm: Loãng xương; tăng nguy cơ gãy xương bất thường (đặc biệt là gãy xương sườn và xương bàn chân); tăng huyết áp; đái tháo đường type 2; nhiễm trùng thường xuyên.

    Điều trị Hội chứng Cushing hiệu quả cần xác định nguyên nhân gây bệnh, bao gồm: Hội chứng cushing (u thượng thận), bệnh cushing hay hội chứng cushing do thuốc.

    • Hội chứng Cushing: Phẫu thuật nội soi lấy u đã thành thường quy. 
    • Bệnh Cushing: Thường áp dụng với trường hợp phát hiện khối u, cho tỷ lệ thành công cao. Nếu khối u nhỏ khó phát hiện, người bệnh cần điều trị nội khoa để giảm triệu chứng. Tiếp tục triển khai các kỹ thuật cao hơn nhằm phát hiện chính xác khối u.
    • Hội chứng Cushing do thuốc: Điều trị nguyên nhân và sử dụng thuốc không có nguồn gốc corticoid thay thế. Lưu ý khi dùng glucocorticoid, cần tuân theo đúng hướng dẫn. Nếu thuôc· nguyên nhân này, người bệnh cần đến khám chuyên khoa nội tiết để được giải độc glucocorticoid, tránh suy thượng thận cấp, ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh.

    7. Bệnh to đầu chi

    Bệnh to đầu chi xảy ra khi cơ thể tạo ra quá nhiều hormone tăng trưởng, nguyên nhân gây ra sự phát triển bất thường của xương, các cơ quan và các mô. 

    Đau đầu (đau nhiều ở vùng trán và thái dương) là biểu hiện thường gặp nhất. Ngoài ra, bệnh cũng có thể gây ra tình trạng da và xương ở đầu, mặt, tay chân phát triển to bất thường so với tỷ lệ cơ thể. Các biểu hiện khác bao gồm thay đổi xương (hàm dưới và trán nhô ra…); da dày, nhiều nếp nhăn trên mặt; tăng tiết mồ hôi và cơ thể có mùi; giọng nói trầm hơn.

    Bệnh nguy hiểm ở chỗ, người Việt quan niệm người sở hữu mũi to, trán to,… sẽ có tướng làm quan đã vô tình trì hoãn thời gian điều trị bệnh. Quá trình điều trị bệnh diễn ra chậm trễ khiến người bệnh đối diện với những nguy hiểm liên quan đến tim, gan, phổi,… thậm chí đe dọa đến tính mạng.